Bộ TN&MT vừa nhận được ý kiến góp ý của các Sở TN&MT và đại diện các doanh nghiệp, Tập đoàn hoạt động khoáng sản đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định chi tiết Luật Khoáng sản. Hầu hết các ý kiến đều tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến khoáng sản đi kèm, thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về khoáng sản đi kèm
Góp ý cho Dự thảo Nghị định, ông Phạm Nguyên Hải - Trưởng Phòng Pháp chế, Công ty TNHH khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo cho biết: Thực tế khai thác và chế biến cho thấy với công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến, khả năng thu hồi được thêm các khoáng sản đi kèm trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản chính là rất cao.
Tuy nhiên, vướng mắc đối với các khoáng sản đi kèm nằm ở chỗ chúng không được đề cập đến trong báo cáo phê duyệt trữ lượng, không có phương án kỹ thuật để thu hồi trong thiết kế khai thác mỏ, không được tính toán giá trị kinh tế khi xây dựng mô hình kinh doanh của dự án khai thác, dẫn đến việc doanh nghiệp khai thác thường phải cân nhắc lợi ích kinh tế và hiệu quả đầu tư khi thu hồi.
Để đảm bảo việc khai thác, tận dụng triệt để, không gây lãng phí tài nguyên có giá trị, Công ty TNHH khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo đề nghị các đơn vị soạn thảo cân nhắc xây dựng cơ chế ưu đãi để các doanh nghiệp có cơ sở thu hồi khoáng sản đi kèm.
Cụ thể, các đơn vị soạn thảo cân nhắc không thu tiền cấp quyền khoáng sản với khoáng sản đi kèm (trừ trường hợp đã có cơ sở để xác định rõ trữ lượng cần thu hồi) và không yêu cầu điều chỉnh toàn bộ Giấy phép Khai thác để phục vụ mục đích thu hồi khoáng sản đi kèm. Theo ông Hải, hiện nay chỉ cần có công văn chấp thuận của cơ quan quản lý để thu hồi khoáng sản đi kèm cũng đã mất rất nhiều thời gian và công sức của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các loại thuế, phí đối với khoáng sản đi kèm sẽ được tính trên cơ sở khối lượng khoáng sản đi kèm là thành phẩm cuối cùng đã thu hồi được, riêng đối với mức phí bảo vệ môi trường sẽ được đóng như trong trường hợp tận thu khoáng sản.
Đồng thời, các đơn vị soạn thảo cân nhắc không xếp các thành phần khoáng sản có hàm lượng dưới biên (hàm lượng thấp, không đạt các tiêu chí để khai thác - PV) hoặc bị làm nghèo trong quá trình khai thác vào thành khoáng sản đi kèm, vì nếu doanh nghiệp khai thác đầu tư công nghệ chế biến hiện đại thì vẫn có thể phối trộn với các thành phần khoáng sản có hàm lượng cao để đưa vào chế biến và thu được thành phẩm đạt yêu cầu.
Về khai thác khoáng sản đi kèm, ông Mai Văn Thạch - Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Lai Châu cũng đề nghị, đối với sử dụng đất, đá thải trong quá trình khai thác khoáng sản, tổ chức, cá nhân được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản, trong quá trình khai thác được phép khai thác, thu hồi khoáng sản đi kèm là đất, đá thải làm vật liệu xây dựng, san lấp ngoài mục đích quy định không phải làm thủ tục điều chỉnh giấy phép khai thác.
Theo ông, tổ chức, cá nhân phải thực hiện kê khai nộp thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo quy định; trên cơ sở báo cáo hàng năm của chủ mỏ, Sở TN&MT có trách nhiệm chủ trì để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, các khoản thu theo quy định.
Đồng thời, cần nghiêm cấm hành vi bán, cho, tặng đất đá thải của mỏ mà không thực hiện kê khai nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường theo quy định.
Mỏ vàng Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Xem xét phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản
Bên cạnh các ý kiến liên quan đến khoáng sản đi kèm, Bộ TN&MT cũng nhận được nhiều góp ý đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Dự thảo Nghị định có quy định về thứ tự ưu tiên cho việc áp dụng giá tính thuế tài nguyên trong trường hợp có nhiều mức giá tính thuế tài nguyên được ban hành cho một loại tài nguyên. Theo ông Phạm Nguyên Hải, quy định này chưa rõ ràng và có thể gây khó khăn trong quá trình triển khai việc tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vì chưa đồng nhất với các quy định khác có liên quan. Cụ thể, về tính chất lý, hóa, các sản phẩm đã qua chế biến hoặc chế biến sâu rồi mới bán ra hoàn toàn khác với các sản phẩm tài nguyên, nên không thể đưa về cùng một hệ quy chiếu để sắp xếp theo thứ tự ưu tiên.
Ông Hải nhấn mạnh: “Theo quy định hiện hành về thuế tài nguyên, giá tính thuế tài nguyên cho các sản phẩm đã qua chế biến hoặc chế biến sâu rồi mới bán ra được xác định dựa trên công thức lấy giá bán trừ đi chi phí chế biến. Đây là một chính sách mang tính khích lệ cho các doanh nghiệp có chủ trương đầu tư bài bản, áp dụng công nghệ hiện đại trong chế biến khoáng sản. Nếu trong một khung giá/ bảng giá tính thuế tài nguyên lại tồn tại cùng lúc giá tính thuế tài nguyên cho sản phẩm đã qua chế biến hoặc chế biến sâu và giá tính thuế tài nguyên cho sản phẩm chưa qua chế biến cho cùng một loại khoáng sản, và lại ưu tiên áp dụng giá tính thuế tài nguyên cho khoáng sản nguyên khai để tính tiền cấp quyền thì vô hình chung đã làm mất đi tính chất khích lệ của chính sách”.
Công ty TNHH khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo cũng đề xuất: Đối với quy định về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung, phê duyệt lại, hoàn trả tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, bên cạnh trường hợp có thay đổi về trữ lượng được phép đưa vào thiết kế khai thác, nên bổ sung thêm trường hợp điều chỉnh, hoàn trả tiền cấp quyền khai thác khoáng sản khi số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được tính toán lần đầu hoặc tạm tính là chưa chính xác, nhưng tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản đã đóng đủ theo mức đó (đã đóng dư so với số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định chính thức).
Công ty này cho rằng các đơn vị soạn thảo nên cân nhắc bổ sung các tiêu chí về cấp trữ lượng khoáng sản (chất lượng khoáng sản) và tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác, chế biến vào công thức tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản để đảm bảo phù hợp với quy định về các tiêu chí xác định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản trong Luật Khoáng sản năm 2010.
Đồng thời, các đơn vị soạn thảo quy định rõ hơn về cách thức giải quyết sự khác nhau giữa các hệ số được sử dụng cho việc xác định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Nghị định 67/2019/NĐ-CP với Nghị định sửa đổi trong thời gian chuyển tiếp giữa hai Nghị định.
Liên quan đến Nghị định 67/2019/NĐ-CP, ông Ngọc Thái Hoàng - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Quảng Ninh cho hay, Nghị định quy định: “Đối với các Giấy phép khai thác khoáng sản cấp sau ngày Nghị định số 158/2016/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực, trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (Q) là trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác, nằm trong diện tích, ranh giới theo chiều sâu của khu vực thiết kế khai thác khoáng sản và được quy định trong Giấy phép khai thác khoáng sản”.
Như vậy, trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác được xác định trong giới hạn không gian: Chiều rộng tính theo diện tích khai thác; chiều sâu tính từ lộ vỉa đến đáy mỏ. Với cách tính toán như trên dẫn đến bất cập: Đối với các mỏ than lộ thiên khai thác xuống sâu dưới cốt địa hình tự nhiên, mỏ có địa hình khai thác dạng hình nón, khi đó một số mỏ giáp ranh nhau sẽ có chồng lấn về ranh giới khai thác nhưng không chồng lấn về tài nguyên huy động và thời gian khai thác.
Nếu xác định trữ lượng để tính tiền cấp quyền khai thác theo Quy định tại Nghị định số 67/2019/NĐ-CP sẽ không chính xác do có sự chồng lấn tài nguyên huy động của mỏ khác; phần tài nguyên khu vực biên giới dưới sâu không thể khai thác được bằng phương pháp lộ thiên do giới hạn trên mặt đã đạt đến biên giới kết thúc. Phương pháp tính toán này chỉ đúng khi áp dụng vào các mỏ khai thác đất, đá trên mức cốt địa hình tự nhiên. Do vậy, ông Ngọc Thái Hoàng đề nghị xem xét sửa đổi Khoản 3, điều 6 để phù hợp với thực tế hiện nay tại các mỏ than lộ thiên khai thác xuống sâu.
Theo Báo Bộ Tài nguyên và Môi trường
Tin khác